Các Socket/Slot bộ xử lý của máy tính

CPU lắp đặt được trên socket hoặc Slot, tùy thuộc vào loại chip máy tính của bạn!

Bắt đầu với những bộ xử lý 486, Intel thiết kế bộ xử lý thành linh kiện có thể thay thế và có thể lắp đặt cho người sử dụng và phát triển những tiêu chuẩn cho socket và Slot CPU mà còn cho phép những kiểu khác nhau của bộ xử lý cùng nền tảng cắm vào. Một bí quyết là dùng thiết kế socket ZIF (ZIF: Zero insertion force), nghĩa là bộ xử lý dễ dàng được lắp đặt và tháo ra mà không cần dụng cụ. Những socket ZIF dùng một đòn bẩy để gắn hoặc mở kẹp trên con chip, với đòn bẩy được mở con chip dễ dàng được lắp đặt hay tháo ra. Những socket ZIF có thiết kế thường được in khắc hay rập nổi trên socket chỉ ra chúng thuộc loại hình nào. Những loại socket khác nhau chấp nhận các họ bộ xử lý khác nhau. Nếu biết loại socket hay Slot trên bo mạch chủ, về cơ bản bạn biết loại bộ xử lý nào được thiết kế để cắm vào.

Những bước đi ban đầu

Khởi đầu, tất cả bộ xử lý được gắn trên socket (hoặc hàn trực tiếp vào bo mạch chủ). Trong khi phần lớn bộ xử lý cắm vào socket, cả Intel và AMD tạm thời đưa các bộ xử lý của họ gắn vào Slot vào cuối những năm 1990 bởi vì bộ xử lý bắt đầu tích hợp sẵn bộ nhớ đệm L2, được mua bán như những chip rời từ những nhà sản xuất chip nhớ RAM tĩnh (SRAM) phía bên thứ ba. Do vậy, bộ xử lý bao gồm không chỉ một mà vài chip, tất cả gắn trên bo con rồi cắm vào Slot trên bo chính. Chúng hoạt động tốt nhưng phát sinh thêm chi phí của những chip đệm dư, bản thân bo con, Slot, đóng thùng thêm hay đóng gói, máy móc hỗ trợ, chân và chốt vật lý cho bộ xử lý và bộ tản nhiệt. Nhìn chung, những bộ xử lý được dựa trên Slot thì đắt hơn những bộ xử lý trước dựa trên socket.

Với sự tiến đến Celeron thế hệ thứ hai, Intel tích hợp bộ nhớ đệm L2 trực tiếp vào khuôn bộ xử lý, nghĩa là trong những mạch vòng chip CPU chính không có những chip dư được yêu cầu. Pentium III thế hệ thứ hai (mà code là Coppermine) cùng có bộ nhớ đệm L2 trên khuôn, tương tự như Athlon thế hệ thứ hai (mã code Thunderbird) từ AMD. Với bộ nhớ đệm L2 trên khuôn, bộ xử lý trở về thành chip đơn lần nữa, cũng có nghĩa là gắn nó trên bo rời được cắm vào Slot là không cần thiết. Tất cả những bộ xử lý hiện đại đều tích hợp bộ nhớ đệm L2 (một số cũng tích hợp bộ nhớ đệm L3) và dùng hình thức socket. Như một phần thưởng, bộ nhớ đệm L2 trên khuôn chạy ở tốc độ nhân bộ xử lý, thay vì tốc độ một nửa hay một phần ba của bộ nhớ đệm trong bộ xử lý trên cơ sở Slot.

các socket của máy tính

Chipset

Chúng ta không thể nói về những bo mạch chủ hiện đại mà không thảo luận về những chipset. Chipset là bo mạch chủ; do vậy bất kỳ hai bo mạch nào có cùng loại chipset thì giống hệt về mặt chức năng và hiệu suất.

Chipset thường chứa giao diện bus bộ xử lý (được gọi là front-side bus, hay FSB), những bộ điều khiển bộ nhớ, những bộ điều khiển bus, những bộ điều khiển I/O và nhiều thứ nữa. Tất cả những vòng mạch của bo mạch chủ được chứa trong chipset. Nếu bộ xử lý trong máy tính giống như động cơ trong xe hơi, chipset thay cho khung gầm. Nó là cơ cấu tổ chức trong đó động cơ nghỉ là sự kết nối của nó ra thế giới bên ngoài. Chipset là khung, hệ thống giảm sóc, thiết bị lái, bánh xe và vỏ lốp, sự truyền động, trục lái, bộ truyền động vi sai và thắng. Khung gầm trong xe hơi là cái đặt lực tới mặt đất, cho phép đĩa khởi hành, dừng lại và rẽ ngoặt. Trong máy tính chipset thay cho sự kết nối giữa bộ xử lý và mọi thứ. Bộ xử lý không thể giao tiếp được với mạch điều hợp, những thiết bị, bộ nhớ…, những bo tiếp hợp, những thiết bị, và …mà không thông qua chipset. Chipset là trung tâm chính và hệ thống thần kinh trung ương của máy tính. Nếu nghĩ bộ xử lý như bộ nào thì chipset như xương sống và hệ thống thần kinh trung ương.

Bởi vì chipset kiểm soát giao diện hay những kết nối giữa bộ xử lý và mọi thứ, chipset đọc được loại bộ xử lý nào ta có, chạy nhanh bao nhiêu; những bus chạy nhanh thế nào; trong một số trường hợp tốc độ, loại và số lượng bộ nhớ ta đang dùng và nhiều phát hiện nữa. Thực tế chipset là thành phần quan trọng nhất trong hệ thống, có thể quan trọng hơn bộ xử lý. Tôi đã thấy những hệ thống với bộ xử lý nhanh nhất hoạt động kém hơn những hệ thống với bộ xử lý chậm hơn nhưng có chipset tốt hơn, giống như một chiếc xe hơi với công suất yếu thắng cuộc đua nhờ rẽ ngoặc và thắng xe tốt hơn như thế nào. Khi quyết định một hệ thống, tôi bắt đầu chọn chipset trước bởi vì chipset quyết định các khả năng bộ xử lý, bộ nhớ, I/O và mở rộng.

Kiến trúc đồ họa tích hợp của Intel

Intel bắt đầu giới thiệu những chipset bo mạch chủ với video tích hợp đầu tiên là chipset 810 vào tháng 4 năm 1999. Bằng cách xây dựng đồ họa trực tiếp vào chipset bo mạch chủ, không chip đồ họa hay bộ nhớ video khác được yêu cầu, nghĩa là video vê cơ bản bao gồm trong PC cho tự do sử dụng. Nhiều chipset bao gồm đồ họa tích hợp cũng hỗ trợ Slot video AGP hay PCI Express cho nâng cấp, nghĩa là đồ họa tích hợp có thể dễ dàng được nâng cấp do thêm card đồ họa rời.

Video được tích hợp có thể cho hiệu suất đồ họa đáng kể trong thực tế mà không mất chi phí. Tôi thường đề nghị dùng những bo mạch chủ máy tính có tính năng đồ họa tích hợp cùng như một Slot đế thêm một card video sau này; theo cách này bạn có thể bắt đầu bằng cách tiết kiệm tiền dùng đồ họa được tích hợp, sau đó nâng cấp lên giải pháp video hiệu suất cao hơn bằng cách đơn thuần thêm vào một card chất lượng tốt.